TIỂU SỬ ADRIAN HARDY HAWORTH

Haworth, Adrian Hardy (1767-1833) sinh ra trong thời hoàng kim của ngành thực vật học, là một tác giả hàng đầu về cây mộng nước ở Anh, tên ông được vinh dự đặt cho chi Haworthia cho tới ngày nay.
Sinh ra ở Cottingham gần Hull, nước Anh vào ngày 19 tháng 4 năm 1767, Adrian Hardy Haworth trở thành người làm vườn, nhà thực vật học nghiệp dư, nhà động vật học, nhà phân loại thực vật học, nhà nghiên cứu sâu bướm và nhà côn trùng học. Ông là con của gia đình Benjamin Haworth của Haworth Hall. Ông sớm đã được giáo dục với gia sư và hướng tới một sự nghiệp trong pháp luật. Tuy nhiên, sau khi anh trai thừa kế hết di sản sau cái chết của cha ông, và sau khi cho AH Haworth một khoản trợ cấp đủ để từ bỏ nghề luật sư - ở tuổi 21 ông đã cống hiến tất cả thời gian của mình để theo đuổi lịch sử tự nhiên của cây cối và côn trùng.
Tại Chelsea, Anh AH Haworth đã có một trong những khu vườn tư nhân tốt nhất ở nước Anh – tập hợp bộ sưu tập những cây mọng nước quan trọng nhất trong thời gian của mình. Nghiên cứu của ông là do các chuyến thường xuyên đến thăm Vườn Bách thảo Hoàng gia ở Key, Anh Quốc và sử dụng thư viện và phòng thảo mộc của Sir Joseph Banks.
Đặc biệt quan tâm, đam mê đến cây mọng nước là một chi Haworthia phổ biến được danh dự đặt tên của AH Haworth năm 1809 bởiTiến sĩ Henri Auguste (1777-1814). Trong số các giống cây được AH Haworth mô tả là: Duvalia, Epiphyllum, Mammillaria, Orbea, Tridentea và Tromotriche năm 1812; Pectinaria năm 1819; và Cephalophyllum, Hymenogyne và Monanthes năm 1821. Chi Epiphyllum lần đầu tiên được sử dụng như là một cái tên vào năm 1616 bởi Tiến sĩ Paul Hermann (1646-1695), nhưng chưa bao giờ được ông xuất bản cho đến khi AH Haworth đã làm như vậy vào năm 1812.
Các loài được danh dự mang tên của AH Haworth là: Aeonium haworthii, Mesembryanthemum (Lampranthus) haworthii, Ruschiahaworthii, Senecio haworthii và Tetragonia haworthii. Ông cũng mô tả nhiều loài của Aloe, Cactus, Cereus, Crassula, Epiphyllum, Euphorbia, Haworthia và nhiều, nhiều Mesembryanthemums, cùng với các loài khác.
Về chủ đề sách mọng nước của AH Haworth, các tác phẩm chính của ông là "Các quan sát về Mesembryanthemum" trong hai phần, 1794 và 1795, với tổng số 480 trang - và 'Tóm tắt về các cây mọng nước" (Synopsis of Succulent Plants) với 334 trang năm 1812 và bổ sung năm 1819; sửa đổi năm 1821. Có rất nhiều bài báo về đặc trưng các loài cây mộng nước. Có thể lưu ý rằng hầu hết các loài Mesembryanthemum được mô tả trong thời gian của ông là những loại cây bụi. Mãi cho đến sau này trong cuộc đời mà AH Haworth trở thành quan tâm hơn đến xương rồng hơn đến từ châu Mỹ.
AH Haworth đã nhận được cây xương rồng và cây mọng nước thu được từ:
1. Francis Masson (1741-1805) thu thập được ở các quần đảo ở Nam Phi, Canary và Azores, Tây Ấn và Bắc Phi.
1. Francis Masson (1741-1805) thu thập được ở các quần đảo ở Nam Phi, Canary và Azores, Tây Ấn và Bắc Phi.
2. James Bowie (1789-1869) thu thập được ở Brazil và Nam Phi.
3. Tiến sĩ William John Burchell (1781-1863) đã sưu tập ở Nam Phi và Brazil.
4. Thomas Charles Bridges (1807-1865) thu thập được ở các vùng nhiệt đới của Chile, Peru, Bolivia và Guatemala và California.
Trao đổi các cây mọng nước với:
5. Joseph Franz Maria Anton Hubert Ignatz Salm-Reifferscheid-Dyck (1773-1861) người sở hữu một cây xương rồng rất lớn và bộ sưu tập thực vật mọng nước tại Castle Dyck, Dusselforf, Đức.
6. Christoph Friedrich Otto (1783-1856) là người bảo tồn tại Vườn bách thảo Hoàng gia Béc-lin.
7. Tiến sĩ Martinus van Marum (1750-1837), người sáng lập bộ sưu tập của Teyler's Stichting tại Haarlem, Hà Lan.
6. Christoph Friedrich Otto (1783-1856) là người bảo tồn tại Vườn bách thảo Hoàng gia Béc-lin.
7. Tiến sĩ Martinus van Marum (1750-1837), người sáng lập bộ sưu tập của Teyler's Stichting tại Haarlem, Hà Lan.
Và tương ứng với:
8. Tiến sĩ Sir Joseph Banks (1743-1820), người đã đi trên con tàu Capt James Cook (1728-1779) trên tàu Endeavour vòng quanh thế giới 1768-71 và là giám đốc đầu tiên của Vườn thực vật Hoàng gia tại Kew 1773.
9. William Hugh Curtis (1746-1799) là người sáng lập, biên tập và xuất bản Tạp chí thực vật (sau khi ông mất đổi tên thành Tạp chí Thực vật Curtis).
10. Robert Sweet (1782-1835), người quản lý vườn ươm tại Stockwell, Fulham và James Colvill tại Chelsea, Anh. 11, John Claudius Loudon (1783-1843) là một thiết kế cảnh quan Scotland, nhà thực vật học và ký giả tạp chí làm vườn.
Haworth, Adrian Hardy (1767-1833) sinh ra trong thời hoàng kim của ngành thực vật học, là một tác giả hàng đầu về cây mộng nước ở Anh, tên ông được vinh dự đặt cho chi Haworthia cho tới ngày nay.
Adrian Hardy Haworth mất trong đợt bệnh dịch tả xảy ra ở Anh vào ngày 24 tháng 8 năm 1833. Đây là một người đàn ông độc lập,có nghĩa là ai có thể có được bất cứ thứ gì cần thiết để nghiên cứu sự quan tâm của ông đối với các chủ đề thực vật có giá trị đối với các chuyên gia của tương lai. Ông là Chủ tịch của Hiệp hội Côn trùng học London từ 1806 đến 1822
GIỚI THIỆU GIỐNG CÂY HAWORTHIA
Haworthia là một chi lớn của cây mọng nước đặc hữu của Nam Phi. Nhiều loài trong số giống này có hoa nhỏ, và có mặt lá gần như trong suốt trong giống như tấm kính mờ. Haworthias là một trong những ngôi sao của họ Asphodelaceae, và một trong những loài mọng nước phổ biến nhất.Trong khi hầu hết các loại cây mọng nước thích nhiều nắng, Haworthias lại thích nghi hơn với điều kiện bóng râm, thường phát triển dưới tán cây bụi hoặc trên đá. Đặc điểm này làm cho chúng có ít đối thủ cạnh tranh trong vùng khô.Haworthias là vô cùng khó khăn để được tìm thấy trong môi trường sống bản địa của chúng. Quần thể của Haworthias rấtnhỏ. Thường trong vài mét, hàng chục đến hàng trăm cá thể cùng nhau phát triển. Mặt khác, quần thể của của chúng thường phân tán và khoảng cách nhau hàng kilomet. Trong một chuyến đi thực địa tìm cây mọng nước, bạn hầu như chỉ tìm thấy H. viscosahoặc H. cymbiformis. May mắn hơn, bạn có thể tìm thấy H. arachnoidea. Các loài thông thường khác được trồng như H. retusa vàH. turgida thì hiếm khi gặp phải. Cho đến nay các loài Haworthia được công nhận chủ yếu phát triển gần các thành phố hoặc đường giao thông. Có nhiều điều chưa được khám phá chắc chắn.Một điểm đặc trưng tuyệt vời của Haworthias là sự thay đổi lớn trong hình dạng. Kết cấu và màu sắc khác nhau rất lớn giữa cácloài và thường hiển thị các kết hợp đặc biệt hấp dẫn. Người trồng cây cẩn thận chọn cây bố mẹ và sau đó lai tạo chúng với nhau, để tạo ra nhiều giống thú vị hơn. Mặc dù sự kết hợp của các đặc điểm của các cây con có thể đoán trước được, kết quả hiếm khi thất vọng. Một số người thích thú với lai tạo Haworthia, có một sự yêu thích với vẻ đẹp của từng giống cây này.
PHÂN LOẠI CÂY HAWORTHIA

Haworthia là một chi lớn của cây mọng nước đặc hữu của Nam Phi. Nhiều loài trong số giống này có hoa nhỏ, và có mặt lá gần như trong suốt trong giống như tấm kính mờ. Haworthias là một trong những ngôi sao của họ Asphodelaceae, và một trong những loài mọng nước phổ biến nhất.Trong khi hầu hết các loại cây mọng nước thích nhiều nắng, Haworthias lại thích nghi hơn với điều kiện bóng râm, thường phát triển dưới tán cây bụi hoặc trên đá. Đặc điểm này làm cho chúng có ít đối thủ cạnh tranh trong vùng khô.Haworthias là vô cùng khó khăn để được tìm thấy trong môi trường sống bản địa của chúng. Quần thể của Haworthias rấtnhỏ. Thường trong vài mét, hàng chục đến hàng trăm cá thể cùng nhau phát triển. Mặt khác, quần thể của của chúng thường phân tán và khoảng cách nhau hàng kilomet. Trong một chuyến đi thực địa tìm cây mọng nước, bạn hầu như chỉ tìm thấy H. viscosahoặc H. cymbiformis. May mắn hơn, bạn có thể tìm thấy H. arachnoidea. Các loài thông thường khác được trồng như H. retusa vàH. turgida thì hiếm khi gặp phải. Cho đến nay các loài Haworthia được công nhận chủ yếu phát triển gần các thành phố hoặc đường giao thông. Có nhiều điều chưa được khám phá chắc chắn.Một điểm đặc trưng tuyệt vời của Haworthias là sự thay đổi lớn trong hình dạng. Kết cấu và màu sắc khác nhau rất lớn giữa cácloài và thường hiển thị các kết hợp đặc biệt hấp dẫn. Người trồng cây cẩn thận chọn cây bố mẹ và sau đó lai tạo chúng với nhau, để tạo ra nhiều giống thú vị hơn. Mặc dù sự kết hợp của các đặc điểm của các cây con có thể đoán trước được, kết quả hiếm khi thất vọng. Một số người thích thú với lai tạo Haworthia, có một sự yêu thích với vẻ đẹp của từng giống cây này.
MỘT SỐ GIỐNG HAWORTHIA PHỔ BIẾN TẠI VIỆT NAM

Hiện nay, mình vẫn chưa tìm được tài liệu nào nói về các giống Haworthia tại Việt Nam và loài cây này đã du nhập vào Việt Nam khi nào. Loài được trồng phổ biến và có mặt lâu đời nhất tôi nghĩ là Haworthia limifolia (hay còn gọi là móng rồng xanh) được một số nhà vườn rất ưa chuộng vì dễ trồng, thuần với khí hậu Việt Nam. Nó có thể chịu được mọi điều kiện khí hậu, và rất dễ nhân giống, và cũng không kén đất trồng. Chỉ cần một chiếc lá từ cây mẹ, sau 1 đến 2 tháng bạn đã có thêm 1 đến 2 hoặc 3 thành viên mới.
Vì lý do dễ trồng và thích hợp mọi điều kiện khí hậu nên đây là giống cây có giá thành rẻ nhất (trong nhóm Haworthia hiện nay).
Một số loài khác cũng được ưa chuộng và trồng hiện nay đó là các giống cây có lá căng mộng và chứa rất nhiều nước như Haworthiacymbiformic, Haworthia cooperi, Haworthia retusa,… Các giống cây này thì khó trồng hơn nhóm lá cứng như móng rồng, chúng không cần nhiều nước chịu bóng râm.
Hiện nay, một số nhà vườn tại Đà Lạt sở hữu những bộ sưu tập Haworthia lên đến trên 100 giống khác nhau, chúng được tuyển nhiều nguồn từ nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Thái Lan. Một số cây Haworthia có trị giá lên đến vài chục triệu đồng.
Việc lai tạo giống giữa các cây với nhau tạo nên sự đa dạng về chủng loài cũng như đa dạng cả về màu sắc và hình thái. Công việc này đòi hỏi cần phải có nhiều thời gian, để có thể kiểm chứng được kết quả.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét